Đội tuyển bóng đá quốc gia Brazil là đội tuyển bóng đá nam quốc gia do Liên đoàn bóng đá Brasil quản lý và đại diện Brasil tham dự đấu trường quốc tế. Brasil là đội tuyển bóng đá thành công nhất trên thế giới hiện nay, với 5 lần giành vị trí số một giải vô địch bóng đá thế giới của FIFA, gần nhất là vào năm 2002.
1. Tổng quan
Đội tuyển bóng đá quốc gia Brazil
Tên khác
Seleção
Hổ đen
Hiệp hội
Liên đoàn bóng đá Brasil
(Confederação Brasileira de Futebol)
Huấn luyện viên
Tite
Đội trưởng
Dani Alves
Thi đấu nhiều nhất
Cafu (142)
Ghi bàn nhiều nhất
Pelé (77)
Sân nhà
Khác nhau
Mã FIFA
BRA
Xếp hạng FIFA
3 Giữ nguyên (16/7/2020)
Cao nhất
1 (9.1993)
Thấp nhất
22 (6.2013)
Hạng Elo
2 Giảm 1 (1/8/2020)
Elo cao nhất
1 (15.6.1958)
Elo thấp nhất
18 (11.2001)
Trận quốc tế đầu tiên
Argentina 3-0 Brasil (Buenos Aires, Argentina; 20/9/1914)
Trận thắng đậm nhất
Brasil 14-0 Nicaragua (México; 17/10/1975)
Trận thua đậm nhất
Uruguay 6-0 Brasil (Viña del Mar, Chile; 18/9/1920)
Brasil 1-7 Đức (Belo Horizonte, Brasil; 8/7/2014)
Giải Thế giới
Số lần tham dự
21 (lần đầu vào năm 1930)
Kết quả tốt nhất
Vô địch: 1958, 1962, 1970,
1994, 2002
Cúp Liên đoàn các châu lục
Số lần tham dự
7 (lần đầu vào năm 1997)
Kết quả tốt nhất
Vô địch: 1997, 2005, 2009, 2013
Copa América
Số lần tham dự
36 (lần đầu vào năm 1916)
Kết quả tốt nhất
Vô địch: 1919, 1922, 1949, 1989, 1997, 1999, 2004, 2007, 2019
Thành tích Huy chương Olympic
Bóng đá nam
Huy chương bạc
Los Angeles 1984
Đồng đội
Huy chương bạc
Seoul 1988
Đồng đội
Huy chương đồng
Atlanta 1996
Đồng đội
Huy chương đồng
Bắc Kinh 2008
Đồng đội
Huy chương bạc
Luân Đôn 2012
Đồng đội
Huy chương vàng
Brasil 2016
Đồng đội
2. Biệt danh
Do tầm ảnh hưởng cao của mình, đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil được biết đến với rất nhiều biệt danh. Một vài trong số đó là:
Tiếng Bồ Đào Nha
Tiếng Việt
Seleção
Sự lựa chọn
Seleção Brasileira
Đội tuyển Brasil
Canarinho
Tiểu kim tước
Verde-Amarela
Vàng – Xanh
Esquadrão de Ouro
Phi đội Vàng
Pentacampeões
Nhà vô địch năm kỳ
3. Lịch sử
Brasil là quốc gia duy nhất đã tham dự tất cả các kì World Cup và là quốc gia đầu tiên vô địch 5 lần (1958, 1962, 1970, 1994 và 2002). Với kết quả đó, người Brasil thường gọi đội tuyển quốc gia của họ là “Pentacampeão”, có nghĩa là “5 lần vô địch” trong tiếng Bồ Đào Nha. Khi tính thêm 2 lần hạng nhì (1950 và 1998) và 2 lần hạng ba (1938 và 1978) tại World Cup, cũng như nhiều thành công khác, Brazil được xem là đội tuyển thành công nhất thế giới bóng đá.
3.1 Những năm đầu
Đội tuyển quốc gia của Brasil được thành lập vào năm 1914 và đã đấu trận đầu tiên là trận giao hữu với Exeter City F.C. ngay trong năm đó, thắng 2-0. Không như những chiến thắng trong tương lai, các lần thi đấu ban đầu của đội tuyển không có gì ngoạn mục, một phần vì các hiềm khích bên trong về vấn đề dùng các cầu thủ nhà nghề làm cho Liên đoàn bóng đá Brasil không thể có một đội tuyển hoàn hảo.
Đặc biệt nhất là sự bất đồng ý kiến giữa hai hiệp hội bóng đá của bang São Paulo và bang Rio de Janeiro và hậu quả là đội tuyển bao gồm các cầu thủ của hai hiệp hội cãi cọ đó. Tại cả hai World Cup 1930 và World Cup 1934, Brasil bị loại ngay tại Vòng 1. Nhưng tại World Cup 1938 thì đã có hiện tượng mới cho tương lai, Brasil đã chiếm hạng ba thế giới với Leônidas da Silva trở thành cầu thủ đầu tiên ghi 4 bàn thắng trong một trận của giải.
Brasil đăng cai World Cup 1950, lần giải đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Giải này đặc biệt vì không có trận chung kết, thay vào đó là 4 đội đứng đầu vòng bảng vào Vòng chung kết và thi đấu vòng tròn một lượt. Tuy nhiên trận giữa Brasil và Uruguay đã được xem như “trận chung kết” của giải. Brazil trước đó đã thể hiện phong độ hủy diệt, đè bẹp Thụy Điển 7-1 và Tây Ban Nha 6-1 và được nhiều người đánh giá là đã cầm chắc chức vô địch trong tay. Trận đấu giữa Brazil và Uruguay ra tại sân vận động Maracanã tại Rio de Janeiro trước 199.854 khán giả và Brasil chỉ cần hoà Uruguay để đoạt chức vô địch. Tuy vậy Brasil đã để thua 1-2 mặc dù đang hòa 1-1. Kết quả này được coi là một trong những bất ngờ lớn nhất trong lịch sử bóng đá. Trận này được dân Nam Mỹ đặt tên là trận “Maracanazo (Maracanãzo) (Thảm họa Maracanã)”. Sau khi trận đấu kết thúc, một bầu không khí im lặng và đau buồn bao trùm lấy sân Maracanã. Màu áo, quần và tất trắng nguyên vẹn từ đầu đến chân mà đội tuyển Brazil đã mặc trong ngày hôm đó đã bị bỏ vĩnh viễn và thay bằng trang phục thi đấu áo vàng quần xanh dương (thỉnh thoảng là quần trắng) và tất trắng như ngày nay.
Chuẩn bị cho World Cup 1954 tại Thụy Sĩ, đội tuyển của Brasil được “thay máu” hoàn toàn, để xóa nhòa trận thua nhục nhã “Maracanã” 4 năm về trước, nhưng vẫn còn các cầu thủ tốt như Nilton Santos, Djalma Santos và Didi. Tại trận tứ kết, Brasil đã bị thua Hungary 2-4. Trận đấu đã bị chỉ trích là một trong những trận “bẩn thỉu” nhất trong lịch sử bóng đá và đã được đặt tên là “Chiến trận Berne” (theo như một số CĐV Brazil).
3.2 Kỉ nguyên Vàng với huyền thoại Pelé (1958-70)
Đến với World Cup 1958, Brazil đã nằm chung bảng với Anh, Liên Xô và Áo. Họ đã đánh bại Áo 3-0 trong trận đầu tiên, sau đó hòa 0-0 với đội tuyển Anh. Trước trận đấu với Liên Xô, HLV Vicente Feola đã thực hiện ba sự thay đổi rất quan trọng để Brazil đánh bại Liên Xô: Zito, Garrincha và Pelé. Họ thắng trận 2-0. Pelé đã ghi bàn thắng duy nhất trong trận tứ kết gặp xứ Wales, và họ đánh bại Pháp 5-2 trong trận bán kết với cú hat-trick của thiên tài 17 tuổi Pelé. Brazil sau đó đánh bại chủ nhà Thụy Điển 5-2 trong trận chung kết để giành chức vô địch World Cup đầu tiên của họ và trở thành quốc gia đầu tiên vô địch World Cup bên ngoài lục địa của mình.
Tại World Cup 1962, Brazil đã giành được chức vô địch World Cup lần thứ hai với Garrincha là cầu thủ ngôi sao, trong khi Pelé, bị chấn thương trong trận đấu thứ hai tại vòng bảng với Tiệp Khắc và không thể chơi phần còn lại của giải đấu.
Tại World Cup 1966, Brazil đã có màn trình diễn siêu tệ nhất của họ tại một kỳ World Cup, giải đấu năm 1966 được ghi nhớ vì lối chơi vô cùng bạo lực như kéo áo, đẩy người, xoạc sau, đánh cùi chỏ, dùng tay để chơi bóng, v..v., và Pelé là một trong những cầu thủ bị ảnh hưởng nặng nề nhất khi ông bị chấn thương trong trận đấu với Bồ Đào Nha. Brazil bị loại ngay từ vòng bảng, trở thành nhà đương kim vô địch World Cup thứ hai bị loại khỏi vòng bảng World Cup. Sau khi giải đấu kết thúc, Pelé tuyên bố rằng ông không muốn thi đấu tại World Cup thêm một lần nữa, tuy nhiên, ông đã lại trở lại vào năm 1970.
Brazil đã giành cúp thế giới lần thứ ba tại World Cup 1970 tại Mexico. Đội tuyển Brazil năm đó được đánh giá là đội bóng xuất sắc nhất trong lịch sử với một dàn sao gồm Pelé, đội trưởng Carlos Alberto Torres, Jairzinho, Tostão, Gérson và Rivelino, mặc dù Garrincha đã giải nghệ trước đó, nhưng đội hình này vẫn được xem là mạnh nhất thế giới khi đó. Họ đã thắng cả sáu trận của họ tại giải đấu này: 4-1 trước Tiệp Khắc, 1-0 trước Anh và 3-2 trước Rumani ở vòng bảng. Họ sau đó hạ Peru 4-2 ở tứ kết, 3-1 trước Uruguay ở bán kết và hủy diệt Italia 4-1 ở trận chung kết. Pelé kết thúc giải đấu với 4 bàn. Brazil giành chiếc cúp Jules Rimet lần thứ ba (quốc gia đầu tiên làm được như vậy). Điều này có nghĩa là họ đã được phép giữ chiếc cúp Jules Rimet vĩnh viễn.
3.3 Suy yếu (1974-90)
Tại World Cup 1982 tổ chức ở Tây Ban Nha, Brazil là được xem là ứng cử viên số 1 cho ngôi vô địch, và trên thực tế họ đã dễ dàng vượt qua vòng bảng, nhưng họ đã bị loại sau thất bại 2-3 ở sân Camp Nou (hay còn gọi là Nou Camp) trước Ý, trong một trận đấu được coi là kinh điển của lịch sử World Cup. Đội tuyển Brazil năm 1982, với những hảo thủ như Sócrates, Zico, Falcão và Éder, được xem là đội bóng vĩ đại nhất không bao giờ giành được một chức vô địch World Cup.
Tại World Cup 1986 ở Mexico, Brazil vẫn là một đội bóng rất mạnh và kỷ luật hơn nhiều so với bốn năm trước đó, tuy vậy họ đã bị đội tuyển Pháp của Michel Platini loại ở tứ kết.
Năm 1989, Brazil giành danh hiệu Copa America đầu tiên kể từ năm 1949.
Tại World Cup 1990 ở Ý, Brazil đã được huấn luyện bởi Sebastião Lazaroni, đã từng là huấn luyện viên năm 1989 Copa América. Với một chiến thuật nghiêng về phòng thủ, với nòng cốt là tiền vệ Dunga, đội bóng thiếu sáng tạo Brazil đã bị loại bởi Argentina của Diego Maradona ngay tại vòng 16 đội ở Turin với tỉ số 1-0.
3.4 Trở lại với đỉnh cao (1994-2002)
Brazil đã trải qua 24 năm mà không giành chiến thắng một kỳ World Cup nào. Họ cuói cùng cũng trở lại với đỉnh cao tại giải đấu năm 1994 ở Hoa Kỳ, nơi một đội tuyển Brazil đầy thực dụng của những Romario, Bebeto, Dunga, Cláudio Taffarel và Jorginho đã lập kỉ lục trở thành đội đầu tiên bốn lần vô địch thế giới. Họ đánh bại chủ nhà Hoa Kỳ 1-0 tại vòng 16 ở San Francisco, một chiến thắng 3-2 trước Hà Lan ở vòng tứ kết tại Dallas, và chiến thắng 1-0 trước Thụy Điển ở vòng bán kết tại Los Angeles. Họ vượt qua Italia của Roberto Baggio trên chấm phạt đền trong trận chung kết để lên ngôi vô địch.
Tại World Cup 1998, đội tuyển Brazil chấp nhận ngôi á quân sau khi để thua 0-3 trước chủ nhà Pháp trong trận đấu cuối cùng. Ngôi sao lớn nhất của họ trong giải đấu năm đó, Ronaldo bất ngờ lên cơn động kinh bí ẩn ngay trước khi trận đấu chung kết diễn ra.
4 năm sau,”Bộ Ba R” (Ronaldo, Rivaldo và Ronaldinho) đã đưa đội tuyển Brazil giành chức vô địch thế giới thứ năm tại World Cup 2002, giải đấu được tổ chức ở 2 quốc gia Hàn Quốc và Nhật Bản. Brazil giành vé vào vòng 16 với vị trí đầu bảng sau khi đánh bại cả ba đối thủ là Thổ Nhĩ Kỳ, Costa Rica và Trung Quốc. Sau đó Brazil đã đánh bại Bỉ 2-0 tại Kobe ở vòng 16 với hai bàn thắng của Rivaldo và Ronaldo. Đối đầu với đội tuyển Anh trong trận tứ kết ở Shizuoka, họ thắng 2-1, với bàn thắng ấn định tỉ số tới từ một cú đá phạt tuyệt đẹp của Ronaldinho. Trận bán kết tái đấu Thổ Nhĩ Kỳ ở Saitama; Brazil thắng 1-0 với Ronaldo là người ghi bàn duy nhất. Trong trận chung kết giữa Đức và Brazil ở Yokohama, Ronaldo đã ghi cả hai bàn thắng trong chiến thắng 2-0 của Brazil. Ronaldo cũng đã giành được danh hiệu Chiếc giày vàng khi là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của giải đấu năm đó với 8 bàn thắng.
3.5 Từ 2006 đến nay
Brazil đã giành được chức vô địch Copa América năm 2004, chức vô địch lần thứ ba của họ trong bốn lần tham dự kể kể từ năm 1997. Brazil cũng đã giành được danh hiệu FIFA Confederations Cup lần thứ hai vào năm 2005. Huấn luyện viên Carlos Alberto Parreira đã xây dựng đội hình của Brazil với sơ đồ 4-2-2-2. Với biệt danh là “Bộ tứ ma thuật”, hàng tấn công của Brazil giai đoạn này được xây dựng xung quanh bốn ngôi sao: Ronaldo, Adriano, Kaká và Ronaldinho.
3.5.1 World Cup 2006
Tại World Cup 2006 trên đất Đức, Brazil đã thắng cả hai trận đầu tiên gặp Croatia (1-0) và Australia (2-0). Trong trận đấu cuối vòng bảng với Nhật Bản, Brazil thắng 4-1. Ronaldo ghi hai bàn và san bằng kỷ lục của huyền thoại người Đức Gerd Muller để trở thành cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử các kỳ World Cup. Ở vòng 16, Brazil đánh bại Ghana 3-0. Với một bàn ghi được trong trận đấu này, Ronaldo đã có bàn thắng thứ 15 của anh tại World Cup, chính thức phá kỷ lục của Gerd Muller. Tuy nhiên đội tuyển Brazil đã bị loại ở vòng tứ kết khi đối đầu với đội tuyển Pháp, họ thua đau 0-1 với bàn thắng duy nhất của tiền đạo Henry.
Dunga được thuê làm HLV trưởng mới của đội tuyển Brazil vào năm 2006. Brazil sau đó đã giành được chức vô địch tại Copa América 2007, giải đấu mà Robinho đã đoạt được cả danh hiệu Chiếc giày vàng cũng như danh hiệu cầu thủ hay nhất của giải đấu. Hai năm sau, Brazil đã giành được FIFA Confederations Cup năm 2009 sau khi đánh bại Mỹ 3-2 trong trận chung kết, dù họ bị dẫn trước hai bàn. Đây đã là danh hiệu Confederations Cup lần thứ ba của họ. Kaká được vinh danh là cầu thủ hay nhất của giải đấu trong khi tiền đạo Luís Fabiano đã giành được giải thưởng cầu thủ ghi bàn nhiều nhất giải.
3.5.2 World Cup 2010
Tại World Cup 2010 ở Nam Phi, Brazil đã thắng hai trận đầu tiên ở vòng bảng trước Bắc Triều Tiên (2-1) và Bờ Biển Ngà (3-1). Trận đấu cuối cùng của họ ở vòng bảng là trận đấu với Bồ Đào Nha của ngôi sao Cristiano Ronaldo, đã kết thúc với tỉ số hòa 0-0. Họ phải đối mặt với Chile trong vòng 16 và đã chiến thắng giòn giã 3-0, mặc dù trong trận tứ kết họ đã để thua đội tuyển Hà Lan với tỉ số 1-2 và chính thức nói lời chia tay giải đấu.
Vào tháng 7 năm 2010, Mano Menezes được bổ nhiệm làm huấn luyện viên mới của đội tuyển Brazil . Tại Copa América 2011, Brazil đã để thua trước Paraguay sau loạt đá luân lưu và bị loại ở ngay vòng tứ kết. Kết quả này đã khiến HLV Mano Menezes bị sa thải vào tháng 11 năm 2012, và được thay thế bởi Luiz Felipe Scolari . Vào ngày 6 tháng 6 năm 2013, Brazil đã tụt xuống vị trí thứ 22 trong bảng xếp hạng FIFA, thứ hạng thấp nhất của họ từ trước tới nay . Brazil đăng cai tổ chức giải đấu 2013 FIFA Confederations Cup với mục tiêu bảo vệ chức vô địch của họ. Trong trận chung kết, Brazil phải đối mặt với đương kim vô địch thế giới Tây Ban Nha nhưng họ đã giành chiến thắng 3-0 và đoạt danh hiệu Confederations Cup lần thứ tư của họ. Tiền đạo Neymar đoạt Giải thưởng Quả bóng Vàng của giải đấu, trong khi thủ môn Júlio César đã giành Giải Găng tay vàng cho thủ môn xuất sắc nhất của giải đấu.
3.5.3 World Cup 2014
Trong trận mở màn của World Cup 2014 gặp Croatia, hai bàn thắng của Neymar và một bàn của Oscar đã giúp Selecao giành chiến thắng với tỉ số 3-1 trong trận đấu ra quân của họ tại kỳ World Cup được tổ chưc trên sân nhà. Brazil sau đó đã có trận hòa không bàn thắng với Mexico, trong một trận đấu mà thủ môn Mexico là Guillermo Ochoa đã chơi xuất thần, trước khi giành quyền vào vòng đấu loại trực tiếp bằng chiến thắng 4-1 trước Cameroon ở lượt đấu cuối, với Neymar một lần nữa ghi hai bàn, và Fred và Fernandinho mỗi người ghi một bàn thắng. Brazil phải đối mặt với Chile tại vòng 16, họ dẫn trước sau 18 phút thi đấu với bàn thắng đầu tiên của David Luiz, trước khi kết thúc thời gian thi đấu chính thức với tỉ số hòa 1-1. Brazil giành quyền vào tứ kết sau chiến thắng kịch tính 3-2 ở loạt sút luân lưu.
Đội bóng một lần nữa phải đối mặt với một đối thủ khác tới từ Nam Mỹ trong trận tứ kết, họ đánh bại Colombia 2-1 với những bàn thắng của hậu vệ trung tâm David Luiz và đội trưởng Thiago Silva. Vào cuối trận đấu, Neymar bị dinh chấn thương sau khi bị đầu gối của hậu vệ Colombia Juan Camilo Zúñiga chạm vào lưng. Chấn thương đã khiến Neymar buộc phải nghỉ thi đấu trong phần còn lại của giải đấu. Brazil cũng phải đối mặt với những vấn đề khác trước trận bán kết gặp Đức, đội trưởng Thiago Silva bị treo giò khi đã nhận đủ hai thẻ vàng tại giải đấu.
Brazil để thua 1-7 trước Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức ở bán kết. Đây là thất bại đậm nhất trong lịch sử đội tuyển bóng đá Brazil. Họ tiếp tục để thua 0-3 trước Hà Lan ở trận tranh hạng ba. Với 14 bàn thua sau 7 trận, Brazil là đội bóng bị lọt lưới nhiều nhất giải đấu, cũng là đội bóng chủ nhà bị lọt lưới nhiêu nhất tại một kỳ World Cup từ trước đến nay.
3.5.4 World Cup 2018
Brasil khởi đầu chiến dịch World Cup 2018 của họ với trận hòa 1-1 trước Thụy Sĩ – bàn thắng duy nhất của đội tuyển Brazil đến từ pha dứt điểm đẹp mắt của Philippe Coutinho – trận hòa đầu tiên của họ trong một trận mở màn World Cup kể từ năm 1978. Tuy nhiên, trong trận thứ hai của vòng bảng, họ đã thắng Costa Rica 2-0 nhờ những bàn thắng đẹp mắt của Coutinho và Neymar ở những phút bù giờ. Ở lượt trận cuối cùng gặp Serbia, Brasil tiếp tục giành chiến thắng với tỉ số tương tự nhờ các pha lập công của Paulinho và Thiago Silva, giúp vũ công Samba đứng vị trí nhất bảng E với 7 điểm. Ở vòng 1/8 gặp đối thủ sừng sỏ México, họ tiếp tục vượt qua El Tri cũng với tỉ số 2-0 bằng các pha lập công của Neymar và Roberto Firmino ở những phút hiệp 2, giúp đội tuyển Brasil lọt vào tứ kết. Tuy nhiên các vũ công Samba một lần nữa phải dừng bước ở tứ kết sau thất bại 1-2 trước đội tuyển Bỉ và đành ngậm ngùi chia tay giải đấu. Kết thúc giải đấu, Neymar và các đồng đội lại lỗi hẹn với chức vô địch World Cup thêm một lần nữa.
4. Danh hiệu
Vô địch thế giới: 5
- Vô địch: 1958; 1962; 1970; 1994; 2002
- Á quân: 1950; 1998
- Hạng ba: 1938; 1978
- Hạng tư: 1974; 2014
Vô địch Liên đoàn châu lục: 4
- Vô địch: 1997; 2005; 2009; 2013
- Á quân: 1999
- Hạng tư: 2001
Vô địch Nam Mỹ: 9
- Vô địch (9): 1919; 1922; 1949; 1989; 1997; 1999; 2004; 2007; 2019
- Á quân (11): 1921; 1925; 1937; 1945; 1946; 1953; 1957; 1959; 1983; 1991; 1995
- Hạng ba (7): 1916; 1917; 1920; 1942; 1959; 1975; 1979
- Hạng tư (3): 1923; 1956; 1963
Vô địch CONCACAF
- Á quân: 1996; 2003
- Hạng ba: 1998
Bóng đá nam tại Olympic:
- Huy chương vàng: 2016
- Huy chương bạc: 1984; 1988; 2012
- Huy chương đồng: 1996; 2008
- Hạng tư: 1976
Bóng đá nam tại Americas Games:
- 1936 1963; 1975; 1979; 1987
- 1984 1959; 2003
- 1996 1983
5. Thành tích
5.1 Giải vô địch bóng đá thế giới
Năm
Quốc gia
Kết quả
St
T
H
B
Bt
Bb
1930
Uruguay
Vòng 1
2
1
0
1
5
2
1934
Ý
Vòng 1
1
0
0
1
1
3
1938
Pháp
Hạng ba
5
3
1
1
14
11
1950
Brasil
Á quân
6
4
1
1
22
6
1954
Thụy Sĩ
Tứ kết
3
1
1
1
8
5
1958
Thụy Điển
Vô địch
6
5
1
0
16
4
1962
Chile
Vô địch
6
5
1
0
14
5
1966
Anh
Vòng 1
3
1
0
2
4
6
1970
México
Vô địch
6
6
0
0
19
7
1974
Tây Đức
Hạng tư
7
3
2
2
6
4
1978
Argentina
Hạng ba
7
4
3
0
10
3
1982
Tây Ban Nha
Vòng 2
5
4
0
1
15
6
1986
México
Tứ kết
5
4
1
0
10
1
1990
Ý
Vòng 2
4
3
0
1
4
2
1994
Hoa Kỳ
Vô địch
7
5
2
0
11
3
1998
Pháp
Á quân
7
4
1
2
14
10
2002
Hàn Quốc Nhật Bản
Vô địch
7
7
0
0
18
4
2006
Đức
Tứ kết
5
4
0
1
10
2
2010
Cộng hòa Nam Phi
Tứ kết
5
3
1
1
9
4
2014
Brasil
Hạng tư
7
3
2
2
11
14
2018
Nga
Tứ kết
5
3
1
1
8
3
2022
Qatar
Chưa xác định
2026
Canada México Hoa Kỳ
Tổng cộng
21/21 5 lần: Vô địch
109
73
18
18
229
105
5.2 Cúp Liên đoàn các châu lục
Năm
Kết quả
St
T
H
B
Bt
Bb
1992
Không giành quyền tham dự
1995
1997
Ả Rập Xê Út
Vô địch
5
4
1
0
14
2
1999
México
Á quân
5
4
0
1
16
6
2001
Hàn Quốc Nhật Bản
Hạng tư
5
1
2
2
3
3
2003
Pháp
Vòng 1
3
1
1
1
3
3
2005
Đức
Vô địch
5
3
1
1
12
6
2009
Cộng hòa Nam Phi
Vô địch
5
5
0
0
14
5
2013
Brasil
Vô địch
5
5
0
0
14
3
2017
Không giành quyền tham dự
Tổng cộng
7/10 4 lần: Vô địch
33
23
5
5
78
27
5.3 Cúp bóng đá Nam Mỹ
Copa América
Năm
Chủ nhà
Thành tích
Thứ hạng
Số trận
Thắng
Hòa
Thua
Bàn thắng
Bàn thua
1916
Argentina
Hạng ba
3rd
3
0
2
1
3
4
1917
Uruguay
Hạng ba
3rd
3
1
0
2
7
8
1919
Brasil
Vô địch
1st
4
3
1
0
12
3
1920
Chile
Hạng ba
3rd
3
1
0
2
1
8
1921
Argentina
Á quân
2nd
3
1
0
2
4
3
1922
Brasil
Vô địch
1st
5
2
3
0
7
2
1923
Uruguay
Hạng tư
4th
3
0
0
3
2
5
1924
Uruguay
Bỏ cuộc
1925
Argentina
Á quân
2nd
4
2
1
1
11
9
1926
Chile
Bỏ cuộc
1927
Peru
1929
Argentina
1935
Peru
1937
Argentina
Á quân
2nd
6
4
0
2
17
11
1939
Peru
Bỏ cuộc
1941
Chile
1942
Uruguay
Hạng ba
3rd
6
3
1
2
15
7
1945
Chile
Á quân
2nd
6
5
0
1
19
5
1946
Argentina
Á quân
2nd
5
3
1
1
13
7
1947
Ecuador
Bỏ cuộc
1949
Brasil
Vô địch
1st
8
7
0
1
46
7
1953
Peru
Á quân
2nd
7
4
0
3
17
9
1955
Chile
Bỏ cuộc
1956
Uruguay
Hạng tư
4th
5
2
2
1
4
5
1957
Peru
Á quân
2nd
6
4
0
2
23
9
1959
Argentina
Á quân
2nd
6
4
2
0
17
7
1959
Ecuador
Hạng ba
3rd
4
2
0
2
7
10
1963
Bolivia
Hạng tư
4th
6
2
1
3
12
13
1967
Uruguay
Bỏ cuộc
1975
Nam Mỹ
Hạng ba
3rd
6
5
0
1
16
4
1979
Nam Mỹ
Hạng ba
3rd
6
2
2
2
10
9
1983
Nam Mỹ
Á quân
2nd
8
2
4
2
8
5
1987
Argentina
Vòng bảng
5th
2
1
0
1
5
4
1989
Brasil
Vô địch
1st
7
5
2
0
11
1
1991
Chile
Á quân
2nd
7
4
1
2
12
8
1993
Ecuador
Tứ kết
5th
4
1
2
1
6
4
1995
Uruguay
Á quân
2nd
6
4
2
0
10
3
1997
Bolivia
Vô địch
1st
6
6
0
0
22
3
1999
Paraguay
Vô địch
1st
6
6
0
0
17
2
2001
Colombia
Tứ kết
6th
4
2
0
2
5
4
2004
Peru
Vô địch
1st
6
3
2
1
13
6
2007
Venezuela
Vô địch
1st
6
4
1
1
15
5
2011
Argentina
Tứ kết
8th
4
1
3
0
6
4
2015
Chile
Tứ kết
5th
4
2
1
1
5
4
2016
Hoa Kỳ
Vòng bảng
9th
3
1
1
1
7
2
2019
Brasil
Vô địch
1st
6
4
2
0
13
1
2020
Argentina Colombia
Chưa xác định
2024
Ecuador
Tổng cộng
Tổng cộng
8 lần vô địch
36/46
184
105
37
44
418
201
6. Cầu thủ
6.1 Đội hình hiện tại
Vị trí
Cầu thủ
Ngày sinh
Trận
Bt
Câu lạc bộ
Thủ môn
Ederson
17/8/1993
9
0
Manchester City
Thủ môn
Weverton
13/12/1987
2
0
Palmeiras
Thủ môn
Ivan
7/2/1997
0
0
Ponte Preta
Hậu vệ
Dani Alves (Đội trưởng)
6/5/1983
118
8
São Paulo
Hậu vệ
Thiago Silva
22/9/1984
89
7
Cầu thủ tự do
Hậu vệ
Marquinhos
14/5/1994
47
1
Paris Saint-Germain
Hậu vệ
Danilo
15/7/1991
25
1
Juventus
Hậu vệ
Alex Sandro
26/1/1991
23
1
Juventus
Hậu vệ
Éder Militão
18/1/1998
8
0
Real Madrid
Hậu vệ
Renan Lodi
8/4/1998
4
0
Atlético Madrid
Hậu vệ
Felipe
16/5/1989
1
0
Atlético Madrid
Tiền vệ
Philippe Coutinho
12/6/1992
61
17
Bayern Munich
Tiền vệ
Casemiro
23/2/1992
46
3
Real Madrid
Tiền vệ
Arthur
12/8/1996
20
0
Barcelona
Tiền vệ
Fabinho
23/10/1993
12
0
Liverpool
Tiền vệ
Éverton Ribeiro
10/4/1989
6
0
Flamengo
Tiền vệ
Bruno Guimarães
16/11/1997
0
0
Lyon
Tiền đạo
Neymar
5/2/1992
101
61
Paris Saint-Germain
Tiền đạo
Roberto Firmino
2/10/1991
44
13
Liverpool
Tiền đạo
Gabriel Jesus
3/4/1997
39
18
Manchester City
Tiền đạo
Richarlison
10/5/1997
19
6
Everton
Tiền đạo
Everton
22/3/1996
14
3
Benfica
Tiền đạo
Gabriel Barbosa
30/8/1996
5
2
Flamengo
Tiền đạo
Bruno Henrique
30/12/1990
2
0
Flamengo
6.2 Triệu tập gần đây
Vị trí
Cầu thủ
Ngày sinh
Số trận
Bt
Câu lạc bộ
Lần cuối triệu tập
Thủ môn
Alisson
2/10/1992
44
0
Anh
Hàn Quốc, 19/11/2019
Thủ môn
Daniel Fuzato
4/7/1997
0
0
Roma
Hàn Quốc, 19/11/2019
Thủ môn
Santos
17/3/1990
0
0
Athletico Paranaense
Hàn Quốc, 19/11/2019
Hậu vệ
Emerson
14/1/1999
1
0
Betis
Hàn Quốc, 19/11/2019
Hậu vệ
Rodrigo Caio
17/8/1993
4
0
Flamengo
Nigeria, 13/11/ 2019
Hậu vệ
Marcinho
16/5/1996
0
0
Botafogo
Nigeria, 13/11/ 2019
Hậu vệ
Fagner
11/6/1989
10
0
Corinthians
Peru, 10/9/2019
Hậu vệ
Jorge
28/3/1996
1
0
Monaco
Peru, 10/9/2019
Hậu vệ
Samir
5/12/1994
0
0
Udinese
Peru, 10/9/2019
Tiền vệ
Willian
9/8/1988
70
9
Arsenal
Hàn Quốc, 19/11/2019
Tiền vệ
Lucas Paquetá
27/8/1997
11
2
Milan
Hàn Quốc, 19/11/2019
Tiền vệ
Douglas Luiz
9/5/1998
1
0
Aston Villa
Hàn Quốc, 19/11/2019
Tiền vệ
Matheus Henrique
19/12/1997
1
0
Grêmio
Nigeria, 13/10/ 2019
Tiền vệ
Allan
8/1/1991
9
0
Napoli
Peru, 10/9/2019
Tiền đạo
Rodrygo
9/1/2001
2
0
Real Madrid
Hàn Quốc, 19/11/2019
Tiền đạo
Wesley
26/11/1996
1
0
Aston Villa
Hàn Quốc, 19/11/2019
Tiền đạo
David Neres
3/3/1997
7
1
Ajax
Argentina, 15/11/2019 INJ
Tiền đạo
Vinícius Júnior
12/7/2000
1
0
Real Madrid
Peru, 10/9/2019
- INJ Cầu thủ rút lui vì chấn thương
- PRE Đội hình sơ bộ
- WD Cầu thủ rút lui do chấn thương không rõ ràng
6.3 Cầu thủ xuất sắc
Dưới đây là danh sách các cầu thủ xuất sắc từng khoác áo đội tuyển Brasil.
Ademir
Edinho
Moacir Barbosa
Ademir da Guia
Edmundo
Neymar Jr.
Adriano
Everaldo
Nílton Santos
Aldair
Falcão
Orlando
Amarildo
Feitiço
Oscar
Bebeto
Felix
Pelé
Bellini
Francisco Marinho
Pepe
Brito
Friaça
Piazza
Cafu
Friedenreich
Preguinho
Careca
Garrincha
Rivelino
Carlos
Gérson
Rivaldo
Carlos Alberto
Gilmar
Roberto Carlos
Carpegiani
Jair da Costa
Romário
Cerezo
Jairzinho
Ronaldinho
Clodoaldo
Jorginho
Ronaldo
Coutinho
Julio Cesar
Robinho
Dario
Júnior
Serginho Chulapa
Dida
Kaká
Sócrates
Didi
Leandro
Taffarel
Dirceu
Leão
Tostão
Djalma Santos
Leonardo
Valdir Peres
Domingos da Guia
Leônidas
Vavá
Dorval
Muller
Zico
Dunga
Márcio Santos
Zito
Éder
Marcos
Zizinho
Mauro
Zózimo
7. Các huấn luyện viên nổi tiếng
Cláudio Coutinho
Aymoré Moreira
Luiz Felipe Scolari
Vicente Feola
Carlos Alberto Parreira
Mário Zagallo
Sebastião Lazaroni
João Saldanha
Ademir Pimenta
Vanderlei Luxemburgo
Telê Santana
Flávio Costa
Dunga
Tite
8. Kỷ lục
8.1 Số lần khoác áo đội tuyển quốc gia
#
Cầu thủ
Số trận
Bàn thắng
Thời gian thi đấu
1
Cafu
142
5
1990-2006
2
Roberto Carlos
125
11
1992-2006
3
Dani Alves
118
8
2006-
4
Lúcio
105
4
2000-2011
5
Cláudio Taffarel
101
0
1988-1998
6
Neymar
101
61
2010-
7
Robinho
100
28
2003-2015
8
Djalma Santos
98
3
1952-1968
Ronaldo
98
62
1994-2011
10
Ronaldinho
97
33
1999-2013
8.2 Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất
#
Cầu thủ
Bàn thắng
Số trận
Hiệu suất
Thời gian thi đấu
1
Pelé
77
91
0.85
1957-1971
2
Ronaldo
62
98
0.63
1994-2011
3
Neymar
61
101
0.61
2010-
4
Romário
55
70
0.79
1987-2005
5
Zico
48
71
0.67
1976-1986
6
Bebeto
39
75
0.52
1985-1998
7
Rivaldo
35
74
0.46
1993-2003
8
Jairzinho
33
81
0.4
1964-1982
Ronaldinho
33
97
0.34
1999-2013
10
Ademir
32
39
0.82
1945-1953
Tostão
32
54
0.59
1966-1972