Phá vỡ giả
Phá vỡ giả, hay còn được gọi là Giá phá cản ảo, Bùng nổ giả, trong tiếng Anh được gọi là Fakeout hoặc fake out. Đây là một thuật ngữ thường được sử dụng trong phân tích kĩ thuật để mô tả tình huống khi một nhà giao dịch dự đoán tín hiệu giao dịch hoặc chuyển động giá trong tương lai và mở một vị thế dựa trên dự đoán đó. Tuy nhiên, thực tế là giá chứng khoán không di chuyển theo hướng tín hiệu hoặc chuyển động mà ngược lại.
Đặc điểm của phá vỡ giả
Phá vỡ giả có thể gây tổn thất đáng kể cho những nhà phân tích kĩ thuật. Nhà đầu tư phân tích kĩ thuật thường dựa vào dữ liệu giá chứng khoán trong quá khứ để xác định xu hướng giá trong các điều kiện tương tự. Họ sử dụng các chỉ số và công cụ để giảm thiểu tổn thất trong quá trình giao dịch. Tuy nhiên, đôi khi các yếu tố bên ngoài có thể làm thay đổi tín hiệu dự báo của nhà phân tích.
Các chỉ số thông thường
Các nhà phân tích kĩ thuật thường dựa vào các mô hình giá trên biểu đồ kĩ thuật để đưa ra các khẳng định khác nhau về tín hiệu giao dịch.
-
Chỉ báo Envelope là một trong những chỉ báo được các nhà giao dịch tin cậy sử dụng nhất để theo dõi chuyển động giá chứng khoán trong dài hạn. Chúng vẽ đường kháng cự và đường hỗ trợ tạo thành một kênh giá, giúp xác định phạm vi giá giao dịch của một chứng khoán. Dải Bollinger là chỉ báo xu hướng phổ biến nhất trong số đó.
-
Các kênh xu hướng giá cũng là một mô hình kênh giá phổ biến, tuy nhiên có rủi ro tiềm ẩn cao hơn so với chỉ báo Envelope. Chúng chỉ tập trung vào xu hướng ngắn hạn của giá chứng khoán mà không xem xét sự đảo chiều giá. Các kênh xu hướng giá thường bao gồm phá vỡ giá (breakout gap), khoảng trống tiếp diễn (runaway gap) và khoảng trống cạn kiệt/suy kiệt (exhaustion gap). Việc phát hiện các khoảng trống cạn kiệt và vị trí đảo chiều giá tiềm năng có thể gây ra rủi ro phá vỡ giả cao.
Sử dụng nhiều biến số khác nhau
Do phá vỡ giả có thể gây tổn thất lớn, các nhà giao dịch thường sử dụng nhiều biến số trong quá trình phân tích để giảm thiểu rủi ro.
Ngoài việc xác định giá chứng khoán thông qua các mô hình nến và kênh giá, nhà đầu tư cũng xem xét các loại công cụ biến khác. Hai công cụ phổ biến khác có thể hỗ trợ quan sát các thay đổi giá bao gồm độ rộng thị trường (market breadth) và khối lượng giao dịch trên thị trường (market volume).
Chỉ báo dao động McClellan là một công cụ hữu ích để xem xét độ rộng thị trường. Khối lượng giao dịch cũng là một biến số quan trọng có thể khẳng định thêm tín hiệu giao dịch. Ngoài các thanh khối lượng trên biểu đồ giá, các chỉ số như VWAP, PVI và NVI cũng rất có ích.
Các nhà giao dịch cũng có thể sử dụng các tin tức thị trường cũng như các biện pháp nghiên cứu định tính và định lượng để hỗ trợ các quyết định giao dịch. Dù sử dụng bất kỳ chỉ báo nào, nhà phân tích kĩ thuật cũng có thể gặp phá vỡ giả. Để giảm thiểu rủi ro, nhiều nhà phân tích kĩ thuật đưa ra giới hạn giá trị giao dịch trên mỗi giao dịch của họ. Một giới hạn phổ biến là 2% rủi ro danh mục đầu tư. Họ cũng đặt các lệnh dừng lỗ ở một mức nhất định để quản lý các khoản lỗ.
Ý tưởng ở đây là các nhà đầu tư luôn chuẩn bị trước cho bất kỳ kết quả tiềm năng nào trước khi thực hiện giao dịch.
(Theo Investopedia)